Đầu tháng 3/2023 Tòa án nhân dân TP Hà Nội đã đưa ra xét xử vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản; Vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng, cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự”. Khi nghiên cứu 173 trang Cáo trạng, Nguyễn Thị Hà Thành đã thực hiện 26 vụ lừa đảo đối với ba Ngân hàng và các cá nhân. Trong phạm vi bài viết này, luật sư đề cập đến thủ đoạn lừa đảo của Nguyễn Thị Hà Thành với sự tiếp tay của cán bộ ngân hàng.
Tại ngân hàng A, Thành tìm người có tiền để vay với lãi suất cao hoặc mời hợp tác kinh doanh. Do Thành không có TSBĐ nên không thể đề nghị những người này trực tiếp đưa tiền mà đề nghị họ gửi tiền đồng sở hữu vào ngân hàng và phong tỏa, rồi đưa sổ tiết kiệm để Thành quản lý, từ đó Thành tìm cách vay hoặc rút tiền ra khỏi ngân hàng. Để thực hiện kế hoạch này, Thành tìm cách tiếp cận với Trưởng bộ phận QHKH ngân hàng A là H. Thành bàn với H sẽ báo cáo với ông Đ Giám đốc CN ngân hàng A kế hoạch Thành sẽ gửi đồng sở hữu số tiền lớn tại ngân hàng, ngay sau khi gửi sẽ cầm cố sổ tiết kiệm để vay tiền ngân hàng. H báo cáo Đ, do sổ tiết kiệm cầm cố tại ngân hàng, Thành cần một tài liệu để chứng minh năng lực tài chính thực hiện thủ tục đầu tư các dự án, nên H đề xuất Đ phát hành thêm một Hợp đồng tiền gửi có kỳ hạn và 01 giấy đề nghị phong tỏa. Nếu ngân hàng đồng ý điều kiện giao dịch, Thành mới cùng đồng sở hữu gửi tiền.
Đ, H và các nhân viên ngân hàng đã giúp sức cho Thành trong tất cả các khâu từ gửi tiền tiết kiệm, thẩm định hồ sơ vay, nhận tiền giải ngân…Tại khâu gửi tiền tiết kiệm, Đ đồng ý cho H soạn HĐTG đồng sở hữu và các tài liệu liên quan theo yêu cầu của Thành và giao các giấy tờ này cho Thành. Thành sử dụng HĐTG đồng sở hữu đưa cho các người đồng sở hữu biết để yên tâm. Tại ngân hàng A, do HĐTD chỉ áp dụng cho doanh nghiệp, nên Đ, H sử dụng mẫu HĐTG áp dụng cho KHDN để sửa áp dụng cho KHCN để ký cấp cho Thành, các HĐTG này không được lưu tại ngân hàng A.
Khi nhận được yêu cầu gửi tiền của Thành, H báo với bộ phận giao dịch, yêu cầu thực hiện các thủ tục gửi tiền, ký trước các chứng từ để đưa H mang vào phòng họp để Thành ký sau. Sau khi hoàn tất các giao dịch, Thành đưa cho các đồng ở hữu HĐTG và các giấy tờ phong tỏa để đồng sở hữu, còn sổ tiết kiệm thì do Thành giữ, ngân hàng A không thông báo cho các đồng sở hữu biết có tồn tại sổ tiết kiệm.
Về phần Thành, để có số tiền gửi đồng sở hữu (50%), Thành nhờ một số cán bộ ngân hàng tìm mối vay “nóng”, các cán bộ quản lý nhiều khách hàng nên biết có khách gửi tiền tại ngân hàng đã làm trung gian/bảo lãnh cho Thành “nóng”, có trường hợp khi Thành chưa có tiền, cán bộ ngân hàng còn mở sẵn, ký sổ tiết kiệm…
Để thực hiện như mục đích ban đầu, ngay khi có sổ tiết kiệm đồng sở hữu, Thành đã câu kết với cán bộ ngân hàng để chiếm đoạt tài sản của Ngân hàng A, cụ thể: Thành nhờ các cán bộ thực hiện việc thế chấp sổ tiền kiệm để vay tiền Ngân hàng A với số tiền vay 95% giá trị STK. H nói với các cán bộ ngân hàng lập các hồ sơ cầm cố đưa cho H để H đưa cho Thành và đồng sở hữu ký, thực tế Thành không đưa cho đồng sở hữu ký mà Thành cùng với Thanh T thực hiện ký giả chữ ký của người đồng sở hữu rồi đưa lại cho H để H chuyển lại bộ phận giao dịch hoàn tất thủ tục giải ngân cho Thành, Đ và các cán bộ ngân hàng đã ký duyệt các chứng từ để hoàn thành việc vay cầm cố STK. Giúp sức cho việc giải ngân, bộ phận giao dịch còn giúp Thành mở thêm tài khoản thứ 2 ngoài tài khoản đồng sở hữu để Thành sử dụng, tiền vay được giải ngân vào tài khoản thứ 2 này. Có khoản vay thuộc thẩm quyền của TSC ngân hàng A nhưng bộ phận thẩm định không thẩm định thực tế khách hàng, không kiểm soát, thẩm định được tính trung thực các thông tin trên tờ trình do chi nhánh trình. Bằng phương thức như trên, tại Ngân hàng A, Thành đã thực hiện 39 hợp đồng đã được tất toán.
Còn nữa…
Luật sư Nguyễn Đình Dương